Skip to main content

Dưới những bức tường thành cao ngất, người dân xách theo bao lớn bao nhỏ cùng những cỗ xe ngựa đang xếp hàng vào thành.

Khương Dao chống cằm, tựa vào cửa sổ xe ngựa, ngẩng đầu ngắm nhìn bức tường thành cổ kính. Cửa thành Thượng Kinh được canh giữ rất nghiêm ngặt, trên tường thành đứng đầy binh lính mặc giáp, những người vào thành phải trình thẻ thông hành.

Khi đoàn xe của Khương Dao đến gần, lính canh giơ tay ra hiệu cho dừng lại.

Bạch Ân bước lên trước, lấy ra một tấm lệnh bài. Lính canh giật mình, vừa định quỳ xuống thì Bạch Ân giơ tay ngăn lại: “Quý nhân không muốn gây chú ý.”

Viên tướng giữ thành vội vàng nói: “Nhanh, để đoàn xe đi qua!”

Cửa thành rộng mở, Khương Dao ngồi trên xe, xuyên qua cổng dài, phía sau cánh cổng chính là thành Thượng Kinh, là kinh đô của Nam Trần Quốc.

Thành Thượng Kinh nằm trong vòng vây của núi non, ở trung tâm Nam Trần, là thành phố lớn nhất và cũng là sầm uất nhất.

Có thể nói đây là trung tâm chính trị và kinh tế của cả nước.

Vào thành từ cổng Nam, vừa vào sẽ thấy cảnh náo nhiệt của chợ.

Thành Thượng Kinh có bốn khu chợ lớn nằm ở bốn cổng thành Đông, Tây, Nam, Bắc.

Khu chợ phía Bắc tập trung nhiều thương nhân từ các nước khác, phần lớn bán các mặt hàng như gia vị, thịt và len từ các bộ tộc phía Tây hoặc phía Bắc, tương tự như một thị trường ngoại thương. Chợ phía Đông giống như chợ đầu mối, gần cổng Đông có bến tàu, hàng hóa được dỡ xuống từ tàu thuyền và buôn bán trực tiếp ở đây. Khu chợ phía Tây phát triển mạnh dịch vụ, từ các nhà hàng tốt nhất kinh thành, các lầu hát, kỹ viện, đến sòng bạc, tất cả đều tập trung ở đây, là nơi các quan lại quyền quý trong kinh thành thường xuyên tìm vui.

Còn chợ Nam, nơi Khương Dao đang đi qua, là khu chợ tổng hợp lớn nhất thành phố.

Từ trái cây, rau củ tươi, ngọc thạch, đồ trang sức, lụa, vải vóc, đến thuốc men, gia vị… không có thứ gì mà không thể tìm thấy ở chợ Nam.

Một khu chợ đa dạng như vậy, cả Nam Trần Quốc cũng không tìm được khu chợ thứ hai.

Kiếp trước Khương Dao vào kinh cũng đi qua cổng Nam, vừa vào thành đã bị khu chợ sầm uất này thu hút. Lần đầu tiên nhìn thấy cảnh nhộn nhịp của chợ cổ, cô như một người nông dân vừa bước vào thành phố, cứ nhìn mãi không thôi.

Cho đến khi xe ngựa rời khỏi khu chợ, cô mới tiếc nuối rời mắt.

Kiếp trước, phần lớn thời gian cô đều ở trong cung, nên dù sống ở kinh thành suốt tám năm, cô hiếm khi có cơ hội đi chợ, vì vậy, đối với cô, chợ Nam vẫn giữ nguyên sự mới lạ như lần đầu tiên.

Từ lúc vào thành, cô không kiềm chế được mà bị sự náo nhiệt thu hút, kéo rèm xe ra, thò đầu nhìn khắp nơi.

Chợ đông đúc, xe ngựa khó khăn di chuyển giữa dòng người.

Thấy Khương Dao mải mê ngắm, Lâm Tố nói với Khương Phất Ngọc: “A Ngọc, có vội về cung không?”

Khương Phất Ngọc quay đầu lại: “Huynh muốn làm gì?”

Lâm Tố nói: “Ta muốn dẫn A Chiêu xuống đi dạo một chút, ngồi xe lâu rồi, con bé cũng cần hít thở không khí.”

Lời này thật đúng ý Khương Dao.

Nghe vậy, đôi mắt Khương Dao lập tức mở to, ánh mắt mong chờ nhìn Khương Phất Ngọc.

Khương Phất Ngọc cũng không muốn phá hỏng niềm vui của hai cha con họ, thêm vào đó hôm nay thời gian vẫn còn sớm, đi dạo một chút cũng không sao.

Bà cười nói: “Đi lên phía trước tìm chỗ đỗ xe đi, miễn là A Chiêu vui là được.”

Xe ngựa dừng lại ở một nơi ít người, ba người xuống xe.

Khi Khương Phất Ngọc và Lâm Tố xuống xe, cả hai đều đã đội mũ có mạng che mặt.

Khương Phất Ngọc phải che mặt vì thân phận của bà không tiện để người khác nhận ra, chỉ là… Khương Dao không hiểu vì sao Lâm Tố cũng phải che mặt.

Vừa xuống xe, Lâm Tố đã nắm lấy tay Khương Dao.

“Người ở đây đông hơn trong thị trấn nhà mình, A Chiêu nhớ theo sát cha và mẹ, đừng để lạc.”

Kỳ thật đang có rất nhiều người ngầm bảo vệ bọn họ, nên chẳng lo gì chuyện lạc, nhưng Lâm Tố vẫn luôn cẩn thận dặn dò.

Vừa dứt lời, Khương Phất Ngọc cũng nắm lấy tay kia của Khương Dao. Hai người nắm tay Khương Dao, cùng dắt cô đi về phía trước.

Khương Dao nhìn hai bàn tay đang nắm lấy tay mình, trong lòng thầm nghĩ: Đúng là một cảm giác kỳ diệu, cô vậy mà cũng có thể trải nghiệm cảm giác được cha mẹ cùng nắm tay đi dạo chợ trong thời cổ đại.

Những người bán hàng ở chợ mang theo những giỏ hoa lớn bày bán dọc theo lề đường, còn có người dùng hoa tươi kết thành vòng hoa và vòng tay.

Hoa nở rực rỡ, khiến người ta hoa cả mắt.

 

Các chủ sạp đều rất tinh mắt, khi thấy Khương Phất Ngọc và Lâm Tố đi ra ngoài phải che mặt bằng mạng, lại dắt theo một cô bé xinh xắn, đều biết họ phi phú tức quý, là những “con mồi” dễ moi tiền, liền nhanh chóng xúm lại tiếp thị hoa của mình.

“Quý khách, xem qua cành hoa đào này đi, những cành này ta đi cắt suốt đêm, sáng sớm nay mới mang vào từ ngoài thành, tươi lắm, trưng trong nhà giúp tinh thần thoải mái.”

“Quý khách, ngắm thử vòng hoa này đi, cô bé xinh xắn thế này, đeo vòng hoa vào còn xinh hơn nữa.”

“Cô bé, xem qua vòng tay nhà tôi đi…”

Đột nhiên có người đưa một chiếc vòng tay đan bằng hoa ra trước mặt Khương Dao, cô còn chưa kịp nhìn kỹ đã theo phản xạ giơ tay ra đón lấy.

Chủ sạp lập tức tháo dây của vòng tay, nhanh chóng quấn lên cổ tay Khương Dao, vừa quấn vừa mỉm cười nói: “Tiểu cô nương, mắt thẩm mỹ tốt đấy, chiếc vòng này được dệt từ hoa táng đế, trong sách cổ có câu: ‘Hà bỉ nùng hĩ, táng đế chi hoa’. ý chỉ sự hưng thịnh của thời đại, khi hoa táng đế nở rộ… Này, xong rồi, xem này, có phải rất đẹp không!”

Lúc Khương Dao hoàn hồn lại, trên cổ tay trắng ngần như ngọc của cô đã đeo một vòng hoa nhỏ được đan từ những bông hoa màu vàng nhạt, những sợi dây trang trí xinh xắn quấn quanh cổ tay cô, ừm… phía cuối còn thắt một nút chết.

Khương Dao còn đang thầm nghĩ: Chắc không bị chặt c.h.é.m đâu nhỉ.

Chủ sạp đã nói: “Tiểu cô nương có nước da trắng như tuyết, rất hợp với những màu hoa nhạt như thế này, hai vị khách quan xem đi, có phải rất đẹp không? Mua cho con bé một chiếc đi!”

Khương Phất Ngọc xoa đầu cô: “A Chiêu có thích không?”

Chưa đợi Khương Dao trả lời, nàng đã quay sang hỏi chủ sạp: “Bao nhiêu tiền?”

“Không nhiều lắm, một lượng bạc thôi!”

Khương Phất Ngọc ra hiệu cho Bạch Ân trả tiền.

Các chủ sạp khác thấy quả nhiên họ là người coi tiền như rác, liền nhao nhao kéo đến.

“Tiểu thư, khoan đã, xem qua hoa đào nhà tôi đi, giá rẻ hơn, chỉ nửa lượng thôi!”

“Xem qua chỗ của tôi nữa.”

Tùy tùng của họ vội vàng ngăn những người bán hàng lại.

Khương Phất Ngọc và Lâm Tố đã nhanh chóng dắt Khương Dao né sang một bên.

Dù bước ra hơi nhanh, nhưng họ vẫn giữ được phong thái và vẻ tao nhã, dáng vẻ không chút rối loạn.

Lâm Tố cúi xuống phủi bụi trên váy Khương Dao, nhìn kỹ chiếc vòng hoa trên cổ tay cô, rồi mỉm cười nói với Khương Phất Ngọc: “Ta thật không ngờ, giá cả ở kinh thành lại cao như vậy, một vòng hoa cũng đắt tới một lượng bạc.”

“Chỉ cần A Chiêu vui là được, ngàn vàng khó mua.”

Khương Phất Ngọc nói: “Ta không rõ A Chiêu thích gì, cũng không biết tặng con bé món quà nào. Trước đây con bé nói chỉ thích những con rối do huynh tặng, không cần những gì ta tặng, hôm nay hiếm khi thấy con bé hứng thú với thứ gì, ta làm mẹ nó, tất nhiên phải tặng con.”

Khương Dao cảm thấy trong lòng hơi rung động, hóa ra những lời cô nói với Khương Phất Ngọc trước đây, bà đều nhớ rõ ràng.

Cô ngắm nhìn chiếc vòng hoa trên cổ tay, đúng là trông rất đẹp.

Có lẽ vì bộ não của một đứa trẻ tám tuổi chưa phát triển toàn diện, nên khác biệt so với người lớn. Khương Dao cứ cảm thấy từ sau khi trọng sinh, cô sẽ có những lúc vô tình thể hiện thiên tính trẻ con, sẽ bị thu hút bởi những món đồ nhỏ như thế này.

Dù sao thì Khương Phất Ngọc cũng chủ động tặng cô.

Đây là một cơ hội tuyệt vời để Khương Dao tăng thêm tình cảm với Khương Phất Ngọc. Cô kéo tay Khương Phất Ngọc, nở một nụ cười ngọt ngào dưới ánh mặt trời.

“Cảm ơn mẹ đã tặng quà, A Chiêu thích lắm!”

Khi cô cười, hai má hiện lên hai lúm đồng tiền đối xứng, thật sự rất đáng yêu, nụ cười rạng rỡ như muôn ngàn bông hoa đang nở rộ ở khu chợ.

Khương Phất Ngọc nhìn mà lòng muốn tan chảy.

Lâm Tố chỉ vào một quán trà phía trước, “Qua đó ngồi nghỉ một chút nhé.”

Quán trà ở chợ Nam không xa hoa như những nhà hàng ở chợ Tây, nhưng đông vui nhộn nhịp, giá cả hợp lý, khách buôn hoặc du khách đi chợ mệt thường vào đây uống trà nghỉ ngơi.

Hai người dẫn Khương Dao lên nhã phòng tầng hai, cởi mũ, gọi trà và điểm tâm, ngồi cạnh lan can.

Lâm Tố đẩy mấy món điểm tâm mà Khương Dao thích đến trước mặt cô.

Đúng lúc Khương Dao đang hơi đói, cô cầm một cái bánh hồ nhân thịt lên vừa ăn vừa nghe họ nói chuyện.

“Lâu rồi ta chưa đến những nơi thế này.”

Khương Phất Ngọc nhìn về phía cái bục nhỏ bên dưới, nói với vẻ hoài niệm: “Ta nhớ ngày trước trong thị trấn cũng có một quán trà, quán trà như thế này thường có một người kể chuyện.”

 

Nàng nói: “Ta nhớ người kể chuyện trong quán trà ở thị trấn là một lão ông nho nhã, chuyên kể những chuyện kỳ bí ở làng quê. Mỗi lần ông kể chuyện, dưới sân đều chật kín người, còn có rất nhiều đứa trẻ đến xem náo nhiệt. Ông chỉ cần nói vài câu là đã có thể khiến bọn trẻ giật mình hoảng sợ. Nghĩ lại, đúng là mỗi người đều có một nghề riêng, vị lão ông ấy cũng có chút tài năng.”

Lâm Tố mỉm cười, rót một tách trà: “Đáng tiếc là về sau ông ấy lớn tuổi, giọng cũng khàn, đã sớm về nhà dưỡng già, không kể chuyện nữa. Từ khi ông ấy rời đi, quán trà trong thị trấn cũng không còn khách, nhanh chóng đóng cửa, sang tay cho người khác mở hàng thịt. Tám năm qua, nhiều thứ đã cảnh còn người mất.

Hắn kiểm tra nhiệt độ của trà, rồi đặt tách trà trước mặt Khương Phất Ngọc: “Là trà Phổ Nhĩ, không biết nàng có uống quen không?”

Khương Phất Ngọc nói: “Không sao, ta có gì mà không quen được. Đúng rồi, A Chiêu có uống trà không?”

“A Chiêu còn nhỏ, không nên uống trà.”

Lâm Tố lại gọi một tách nước ấm, đặt trước mặt Khương Dao.

Lúc này, người kể chuyện trong quán trà thong thả bước lên bục. Ông ta mặc áo dài rộng, phe phẩy quạt lông, đập mạnh cây thước trên bàn, thu hút sự chú ý của tất cả khách trong quán.

“Hôm nay các vị đến thật đúng lúc, vừa khéo gặp tôi mở màn.”

Ánh mắt Lâm Tố rơi vào người kể chuyện, “A Ngọc nghe thử xem, so sánh thử xem người kể chuyện ở kinh thành có gì khác với lão ông ở thị trấn không, xem ai giỏi hơn.”

Nói rồi, như nghĩ ra điều gì đó, Lâm Tố xoa đầu Khương Dao: “A Chiêu nghe thử xem, từ trước đến nay con chưa từng nghe kể chuyện mà, phải không?”

Người kể chuyện hắng giọng, rồi mở lời: “Các vị khách quan, hôm nay tôi sẽ kể cho mọi người nghe một truyền thuyết về hồ yêu!”

“Hay lắm!”

Ông ta vừa dứt lời, bên dưới đã có người hò reo, có vẻ ông ta khá được lòng khách trong quán.

Ông phe phẩy cây quạt xếp, bắt đầu kể: “Chuyện kể rằng hồ yêu sinh ra từ điềm xấu, hồ yêu giỏi mê hoặc, là hồng nhan hoạ thuỷ, mị hoặc quân tâm! Mỗi khi hồ yêu xuất hiện, thiên hạ chắc chắn sẽ đại loạn!”

Nghe xong câu đầu tiên, Khương Phất Ngọc nói với Lâm Tố: “Những người kể chuyện này dường như rất thích kể những câu chuyện kỳ bí không xuất xứ.”

Lâm Tố nheo mắt, cười nói: “Có lẽ những chuyện kỳ dị không rõ nguồn gốc như vậy mới hấp dẫn người ta nhất.”

Người kể chuyện lại tiếp tục:

“Các vị khách quan có biết quốc sư của triều trước, Tương Dương Tử, người tu tiên đắc đạo không? Nghe nói ông ta tóc bạc nhưng khuôn mặt lại rất trẻ, sống đến trăm tuổi mà không già, tài trí tuyệt đỉnh, thông minh vô cùng. Tương truyền, Tương Dương Tử trong suốt cuộc đời đã bói ba quẻ về vận mệnh của thiên hạ trong vòng hai trăm năm sau này, đó là ‘Thiên thời’, ‘Địa lợi’, ‘Nhân hòa’, ông ta đoán rằng vào năm Giáp Tý, thiên hạ ắt sẽ đại loạn!”

Người này kể chuyện rất có nhịp điệu, rất có khí thế, vừa mở lời đã làm khán giả hồi hộp.

Bên dưới có người nói: “Ông nói vậy nghĩa là sao, tiên sinh? Ông có thể kể cho chúng tôi nghe điều gì dễ hiểu hơn không?”

“Năm Giáp Tý, thiên hạ đại loạn, chuyện này thì liên quan gì đến hồ yêu?”

Người kể chuyện vuốt râu cười nói: “Các vị khách quan đừng vội, hãy nghe tôi từ từ kể tiếp!”

“Ba quẻ bói, nói ra thì dài, hãy nhìn về triều trước, vận mệnh kéo dài năm trăm năm, cuối cùng bị diệt vong bởi một trận thiên tai. Nghe nói những năm đó, trời đổ mưa lớn không ngừng, lũ lụt khắp nơi, sau đó là dịch bệnh bùng phát. Vị hoàng đế cuối cùng của triều trước không thể dập tắt thiên tai, bị dân chúng lật đổ, ứng với chữ ‘Thiên thời’ trong quẻ đầu tiên, đất nước diệt vong vì thiên tai, lũ lụt xảy ra đúng vào năm Giáp Tý, đây chính là quẻ đầu tiên của Tương Dương Tử!”

“Các vị khách quan thấy sao, chuyện này có thần kỳ không?” Người kể chuyện nhấp một ngụm trà, dưỡng giọng rồi tiếp tục nói.

“Tiếp theo hãy nói về năm Vĩnh Lạc đầu tiên của Nam Trần, khi hoàng đế Túc Tông lên ngôi kế vị, đất ở Hồ Châu rung chuyển, núi lở đất vỡ, dân chúng oán thán, loạn quân nhân cơ hội nổi dậy, tấn công kinh thành, đốt cháy cung Cảnh Dương, ép hoàng đế Túc Tông phải lui về phía Bắc đến Sóc Châu, liên tục rơi vào tình thế nguy hiểm. May thay Túc Tông anh minh thần võ, thân chinh dẫn quân lấy lại giang sơn, nhưng thiên hạ vẫn hỗn loạn suốt mười bốn năm, nguyên nhân bắt nguồn từ chữ ‘Địa lợi’, trận động đất cũng xảy ra vào năm Giáp Tý, đây là quẻ thứ hai của Tương Dương Tử!”

Khương Dao nằm trên lan can nghe, càng nghe càng cảm thấy có điều gì đó không ổn.

Kiếp trước cô từng đọc nhiều sử sách, biết rằng người kể chuyện đang nhắc đến lịch sử triều trước và Nam Trần, cái gọi là “quẻ đầu tiên” chỉ việc triều trước diệt vong vì lũ lụt, còn “quẻ thứ hai” ám chỉ trận động đất xảy ra dưới thời Túc Tông.

Trận động đất đó vô cùng kinh hoàng, chín trong số mười bốn châu của Nam Trần đều bị ảnh hưởng. Tại trung tâm của trận động đất, nhà cửa sụp đổ, xác người la liệt.

Khi động đất xảy ra, cha của Khương Phất Ngọc – tức hoàng đế Túc Tông, vừa mới lên ngôi. Quan lại địa phương nhân cơ hội dấy binh, nói rằng thiên hạ không chấp nhận tân thiên tử, nên trời giáng thiên phạt, nhân cơ đó khởi binh mưu phản, đánh tới kinh thành, thiêu rụi hoàng cung, suýt nữa thì diệt vong. May mắn là Túc Tông tài giỏi, sau nhiều năm chinh chiến mới bình định được chiến loạn.

Người kể nói vậy, nhưng Khương Dao cứ có cảm giác ông ta đang dẫn dắt đến điều gì đó.

Giống như lúc cô viết văn, khi muốn nêu ra luận điểm chính, cô luôn cần tích lũy nhiều dẫn chứng làm cơ sở.

Cô theo bản năng quay sang nhìn Khương Phất Ngọc và Lâm Tố.

Ánh mắt Khương Phất Ngọc nhìn xuống sân khấu, lông mày đã hơi nhíu lại.

Còn Lâm Tố vẫn điềm tĩnh uống trà, khi phát hiện Khương Dao đang nhìn, hắn mới nhẹ nhàng đặt tách trà xuống, hỏi: “A Chiêu có chuyện gì sao?”

Khương Dao đột nhiên nhớ đến một điều, hỏi Lâm Tố: “Cha ơi, năm nay là năm gì?”

Bên dưới, người kể chuyện tiếp tục: “Tiếp theo, ta sẽ nói về quẻ bói thứ ba, quẻ này liên quan đến ngôi sao Hoả tinh…”

Cùng lúc đó, giọng nói dịu dàng của Lâm Tố vang lên bên tai cô.

“Năm nay là năm Giáp Tý.”

You cannot copy content of this page