Skip to main content

NGHE NÀNG LÀ CHUẨN KHỎI CHỈNH

8:39 sáng – 03/01/2025

10.

Khang vương cũng có thể gả được: làm trắc phi mấy năm, rồi thành hoàng phi. Biết đâu sẽ như Hoàng hậu hiện nay, nuôi dạy vài người con, nhẫn nhục chịu đựng nhiều năm, chớp đúng thời cơ mà độc chiếm ngôi mẫu nghi. Rồi lại trải qua thêm nhiều năm tháng, biết đâu cuối cùng còn trở thành Thái hậu.

Khi ta bắt đầu thật lòng cân nhắc chuyện có nên gả cho Khang vương hay không, lại càng cảm thấy mịt mờ.

Thư Linh không hiểu nỗi âu lo của ta, vẫn còn hăm hở lập kế hoạch xem hôm nào đi gặp vị “tài tử” nào.

Ta lo đến nỗi chẳng muốn mở miệng, Thư Linh đành phải kìm lời, bao nhiêu câu đều nén vào bụng, nên tiếng lòng của nàng vang lên dồn dập, ý nghĩ cứ tung bay khắp nơi:

【Tiểu thư thật sự phiền muộn rồi. Thường mỗi ba ngày một bài thơ, vậy mà tháng này KPI còn chưa có lấy một bài. Đã lâu không được khen tiểu thư ngút trời, ta thấy thiếu thiếu.

Trời ơi, rốt cuộc thế đạo gì đây! Tiểu thư nhà ta vàng ngọc cao sang, dung nhan tựa tiên, trí tuệ tựa hoa… vậy mà lo ế ư? Mặt mũi nàng còn tái nhợt lo sầu kìa.

Gió thổi rồi, tập bản thảo của tiểu thư bay tứ tung. Ta nhặt, nhặt, nhặt… cất hết lại, biết đâu sau này có dịp cho Thuần An cư sĩ xem.】

Lại nghe đến “Thuần An cư sĩ”.

Từ tiếng lòng của Thư Linh, ta mới biết đến nhân vật xa lạ này.

Bà đã ngoài năm mươi nhưng tinh thần minh mẫn, phong thái hơn người, tài năng xuất chúng.

Thư Linh bảo Thuần An cư sĩ lừng danh thiên hạ, được hậu thế ngợi ca, nhưng ta trước giờ chẳng nghe tên.

Dù sao, chuyện ta có thể nghe được tiếng lòng của Thư Linh, mà nàng cũng có nhiều “kỳ ngộ”, xem ra cũng chẳng lạ. Thấy nàng ăn uống ngủ nghỉ bình thường, không hề như kẻ mắc chứng cuồng, nên ta cũng chẳng để tâm lắm, cứ coi như nghe chuyện kể.

Quả thật, Thuần An cư sĩ là một “kỳ nhân”.

Nửa đầu cuộc đời bà mịt mờ như sương khói, đến tuổi tri thiên mệnh mới bất ngờ vang danh, dốc lòng soạn ra loạt tập thơ, làm rạng danh biết bao nữ văn nhân vô danh, để lại dấu ấn đậm nét trong văn học sử.

Ta rất ngưỡng mộ.

Thư Linh coi chồng bản thảo của ta như bảo vật, cắn ngón tay nghĩ tên cho tập thơ.

Ta hỏi:
“Chỉ là mấy bản thảo sơ sài, ngươi cất công như vậy làm gì?”

Thư Linh giơ tờ giấy Tuyên, khẽ phất:
“Tiểu thư viết rất hay.”

【Tiểu thư à, giờ người vươn tầm rồi, còn để mình nô tỳ lầm lũi trong xóm vắng vẽ bùa à? Mấy thứ nàng tiện tay viết đã là tuyệt tác, ta còn muốn bí mật mang ra bán lấy tiền, nói chi không hay ư?】

Nghĩ tới chữ viết gà bới của Thư Linh, ta bèn thở dài:
“Ta bắt ngươi tập không ít, cũng mắng ngươi rồi, cớ sao chữ vẫn chẳng tiến bộ?!”

Thư Linh lầu bầu:
“Mấy kiểu chữ này phiền phức quá.”

Bất kể học gì nàng cũng rất nhanh, chỉ có thư pháp là không khá nổi, vừa xiêu vẹo vừa thiếu nét.

Có năm đông tuyết lớn, ta dẫn nàng lẻn ra ngoài ngắm mai. Vẽ một bức “Tuyết Cảnh Thưởng Mai Đồ” xong chỉ trong một nét bút.

Ta mời nàng chấm thêm một cành hồng mai, lưu lại đôi dòng đề từ, nàng khước từ mãi không được, đành hạ bút.

Về nhà, ca ca tưởng ta vì lạnh đến run tay nên vẽ bừa đôi nét, cười nhạo ta suốt nửa năm. Ta trông cũng muốn cười, nhưng thương nàng nên nhịn, không nỡ nói ra.

Nhớ chuyện ấy, ta bật cười:
“Lần này tuyệt đối không để ca ca bắt gặp nữa.”

Thư Linh mặt ửng hồng, vừa xấu hổ vừa hờn, toan nhảy tới đánh ta. Ta cười, vén váy chạy ra ngoài, lao vào vùng tuyết trắng mênh mang.

“Tuyết lại rơi rồi. Đi, chúng ta lên núi Mai lần nữa!”

Ai ngờ lần này vừa đến, lại bất chợt chạm mặt Khang vương đang vi hành.

Ta đề một bài thơ, Khang vương vỗ tay khen:
“Phụ hoàng bảo hôm nay tuyết lớn, muốn bổn vương ra ngoài xem, quả nhiên gặp chuyện kỳ duyên. Tài hoa của Tạ cô nương quả danh bất hư truyền, chữ cũng có khí khái của đại nhân họ Tạ. Bổn vương cũng làm được một bài, chỉ sợ còn thiếu chút gì. Bài này đem dâng phụ hoàng, ắt hẳn Người cũng sẽ ngợi khen.”

Ta liếc ngang bài thơ của hắn, rồi dời mắt ngay.

Khang vương chờ đợi ta khen, nhưng ta thật không tìm ra điểm hay để tán thưởng.

Trong lòng Thư Linh cười “gà gà gà”:

【Ga ga ga, hai ba cành mai, bốn năm cành mai… Học theo tiểu thư bao năm, hôm nay ta rốt cuộc tự tin nói rằng “Ta cũng viết được như thế!”】

Ta yên lặng nhìn mực trên giấy đã khô, cuộn bản thảo lại trao cho Thư Linh cất giữ.

“Điện hạ quá khen, tài mọn của thần nữ chỉ là trò hạ bút linh tinh, chẳng đáng đưa vào đại nhã, e khó lọt mắt Thánh thượng.”

Khang vương mời ta vào ngồi trong đình lưng chừng núi, nói vương phi của hắn đang nghỉ ngơi, muốn ta đến chào một tiếng.

Ta mỉm cười:
“Vương phi mệt nhọc, hôm nay thần nữ không dám quấy rầy.”

Trên đường về phủ, Thư Linh hỏi:
“Tiểu thư nghĩ kỹ rồi, sẽ không gả cho Khang vương?”

Đúng vậy, ta đã quyết.

Hoàng đế lệnh Khang vương, kẻ đang cho xây phủ mới cho ngoại thích, ra ngắm tuyết. Là muốn hắn xe ngựa vàng son dạo cảnh mai, hay đi xem cảnh tuyết đổ sập nhà tranh ở ngoại ô?

Hắn không có tư chất minh quân, Hoàng đế vẫn còn tráng niên, sáng suốt nhìn người, Tạ gia chẳng thể dấn thân mạo hiểm.

Hắn ngưỡng mộ danh tiếng của ta, nhưng chẳng quan tâm đến tài hoa thật sự của ta. Ta không muốn nằm chung giường mà mỗi kẻ một giấc mơ.

Có lẽ ngay khoảnh khắc đó, mọi băn khoăn nhiều ngày của ta tan biến, ta chợt sáng tỏ:

Ta không phải “sợ ế”, mà là “sầu gả”.

Không phải ta lo lắng xem rốt cuộc mình sẽ lấy người thế nào, mà ta bối rối không biết sẽ sống cuộc đời ra sao.

Và ta quyết định trở về Giang Nam.

 

11.

Ta báo tin cho mẫu thân, khi người đang ngồi trong rừng trúc “kim khảm ngọc” mà phụ thân đã cất công trồng cho người.

Năm nay tuyết lớn hoành hành, phụ thân mấy ngày qua bận việc cứu tế chưa về nhà, chỗ ngồi bên cạnh mẫu thân đành để trống.

Mẫu thân khép sách, bảo:
“Để ta nhắn tin cho mấy vị ca ca của con đến đón.”

Ngoại tổ ta là một vọng tộc ở Giang Nam, ông ngoại danh vọng sâu dày.

Mẫu thân là con út, từ nhỏ được cưng chiều trên tay, năm xưa cũng từng được trăm nhà cầu hôn.

Ta nói:
“Có lẽ con sẽ ở đó mấy năm mới hồi kinh.”

Mẫu thân nói:
“Nhà ngoại tổ của con, ở bao lâu mà chẳng được. Năm xưa ta theo chồng đi xa, rất ít dịp về, ông bà ngoại nhớ ta vô cùng. Giờ có con ở đó, cũng coi như ta đền bù thêm cho họ.

“Chuyện hôn sự không vội. Ta và phụ thân đều ích kỷ, muốn giữ con lại thêm ít năm. Khang vương cũng chẳng phải mối duyên lành, con đi xa để hắn sớm dứt tâm tưởng cũng tốt.”

Ta tựa vào gối mẫu thân, khẽ hỏi:
“Nếu con không lấy chồng thì sao?”

Mẫu thân thoáng kinh ngạc, rồi bật cười:
“Ấy cũng hợp ý ông ngoại con, e rằng phụ thân con sẽ quý con hơn cả quý ta. Lúc ấy ta mới phải lo, bởi cha con có khi chẳng muốn để con rời Giang Nam nữa!”

Mẫu thân xuất giá sớm, lại gả đi xa, đó luôn là điều khiến ngoại tổ cảm thấy nuối tiếc.

Nói rồi, người đưa tay chỉnh lại mái tóc cho ta. Đôi bàn tay vừa đi phát cháo cứu tế ngoài ngoại ô, vì lạnh mà ửng đỏ, vẫn vương thoang thoảng mùi mặn nồng của cháo.

Ta chợt thấy lòng yên ổn, mỉm cười:
“Ông bà ngoại thương con, vốn dĩ vì thương mẫu thân. Sao có thể phân chia ai nhiều ai ít?”

 

Ngày ta khởi hành, cả nhà ra tiễn đến bến vận hà.

Đình Liên đã khóc hai lần, mắt đỏ hoe.

Ta nhét vào tay muội một mảnh giấy — trên đó ghi danh sách các công tử thế gia mà ta và Thư Linh từng để ý, xét thấy “tạm dùng được”.

Lúc này, gã thư đồng nọ mang đến một phong thư, chỉ tay về chiếc xe ngựa của phủ Đoan vương đậu xa xa:
“Đây là quà chia tay chủ nhân chuẩn bị, nói rằng Tạ cô nương đến Giang Nam có lẽ sẽ dùng tới.”

Ta nhìn theo, thấy Lâm Gia thò đầu ra cười với ta, rồi bức rèm nhanh chóng khép lại, không thấy bóng dáng hắn nữa.

Nguyên quán của Lâm Gia ở vùng Giang Nam, đương nhiên có vài mối quen biết.

Ta nhận lấy món quà, cùng Thư Linh theo cậu bước lên thuyền.

Đường thủy chòng chành, ta không say sóng nhưng Thư Linh thì nôn đến trời đất tối tăm, chỉ nằm đơ trên giường, mắt trợn ngược.

Ta nhìn mà xót, bưng thuốc đỡ nàng uống.

【Tiểu thư đối với ta thật tốt, hu hu… Mà cớ sao cái kẻ “điên vương” kia cũng có người thương, còn tiểu thư đến nay vẫn chưa gặp lang quân như ý…】

Đủ rồi!

Không nghe nữa cũng chẳng mất lịch sự.

Ta cương quyết rót thuốc vào miệng Thư Linh, để nàng khỏi tơ tưởng linh tinh.

Ta ở Giang Nam tròn ba năm.

 

12.

Nhờ thanh danh của ngoại tổ và lá thư tay của Lâm Gia, ta đã kết giao được nhiều văn nhân mặc khách.

Cùng các biểu muội của mình, ta tổ chức thi văn, ban đầu chỉ gói gọn trong gia tộc, về sau quy mô càng lúc càng lớn, dần dần danh tiếng lan khắp vùng Giang Nam.

Đồng thời, số người đến hỏi cưới ta cũng ngày một tăng.

Ngoại tổ rất ưng ý việc ta chưa muốn thành thân, song đôi lúc cũng thay mặt một vài thế gia quen biết nhắn lời, hỏi ta có nguyện ý gả chăng.

“Đây, lần này là nhà họ Từ. Ta từng gặp đứa nhỏ ấy, tướng mạo cũng khá, văn tài cũng ổn, lớn hơn con một tuổi. Phụ thân nó đích thân tìm đến ta, nên ta mới hỏi con một tiếng.”

Ta mỉm cười hỏi:

“Lần này ngoại gia người nói nhiều như vậy, hẳn là khá vừa lòng chăng?”

“Giang Nam xưa nay nhiều tài tử, phần lớn lại là tài tử phong lưu. Gã này xem ra chính trực đáng tin, nghe đâu rất hâm mộ con. Ngẫm kỹ lại cũng xem như không tồi.”

Ngoại tổ “hừ” khẽ một tiếng, rồi nói tiếp:

“Có điều, lòng riêng ta rất không muốn con lấy chồng. Phụ thân con đối xử với con gái ta đủ tốt, nhưng con gái ta vẫn phải chịu tủi thân. Ta vốn là nam nhân, cũng hiểu để tìm được người tốt hơn e khó lắm.”

Thì ra ngoại tổ từng là tài tử phong lưu nhất Giang Nam thời trẻ, không ngờ về già lại chán ghét loại “phong lưu” ấy.

Nhìn mái đầu hoa râm và dáng vóc còng gập của ông, ta trong lòng ngổn ngang cảm khái, bèn nói:

“Kẻ ngưỡng mộ cháu đông vô kể. Đã là duyên phận khó cầu, thì chẳng cần vội vã lựa chọn khắp nơi.”

Ngoại tổ liền bảo:

“Vậy ta hồi âm cho nhà họ Từ, rằng cứ tùy duyên.”

Lại hỏi:

“Kỳ thi văn tháng này của các con nghe nói có mời nam tử tham dự? Hay để ta vẽ trước một bức tranh mở màn?”

Ta liền châm mực giúp ông:

“Được thế là vinh hạnh lớn của chúng cháu.”

Từ khi tổ chức đến nay, thi văn của chúng ta chỉ mở cửa cho nữ tử.

Bên ngoài cũng có những hội thơ khác náo nhiệt không kém, tất nhiên người ta thường đem ra so sánh.

Lâu dần, có kẻ sinh lòng khiêu khích, chê bai thi hội của chúng ta nhỏ mọn, tầm mắt hẹp hòi, không dám so sánh với các hội thơ khác.

Ngoại tổ khuyên chúng ta – mấy tỷ muội – chẳng cần bận tâm:

“Bọn họ thật phiền, ngày trẻ ta chỉ cần hắt hơi một cái đã bị họ đưa lên ‘tiểu báo’, mắng là phun nước mũi sang biển hiệu nhà người ta, làm ô danh văn nhã, hổ thẹn với danh hiệu Đệ Nhất Tài Tử Giang Nam.”

Bàn bạc xong, chúng ta quyết định: Chỉ cho phép những người đoạt quán quân ở các hội thơ khác mới được tham dự. Vừa khống chế số lượng, vừa bảo đảm chất lượng, tránh uế tạp nơi này.

Tất nhiên, lại có kẻ nói móc: nào là chúng ta “mắt cao hơn đầu”, còn kêu gọi những ai được xưng quán quân chớ đến tiếp tay “thổi phồng” chúng ta.

Nhưng chúng ta không bận tâm, bởi vốn dĩ chúng ta chẳng mời họ. Dù có vài quán quân muốn đến, cũng phải qua khâu kiểm tra tài học và nhân phẩm, rồi mới cho nhập hội.

 

Đến ngày tổ chức, chúng ta hội họp tại biệt trang.

Trời đổ mưa nhỏ, vài bằng hữu thân quen quây quần trong một đình vắng, hoặc nhíu mày suy nghĩ viết thơ, hoặc ung dung trò chuyện.

Có một người đang dồn bút viết say sưa.

Đường tỷ cười nói:

“Diệp phu nhân, sao phu nhân phải tự tay chép mệt nhọc thế này? Cứ để nha hoàn chép giúp có phải hay không. Dù gì nha hoàn của phu nhân cũng viết đẹp, đâu có giống Thư Linh bên cạnh Đình Trúc.”

Mọi người phá lên cười. Ta định nói đỡ cho Thư Linh, ai ngờ vừa mở miệng đã không nhịn nổi, cười lăn lộn.

Thư Linh giận mà chẳng dám nói:

【Toàn bộ những kẻ cười ta đều là “tài nữ”, loại có tên trong sách lịch sử và văn tập. Ta nào dám cãi? Riêng người không có tên tuổi như ta thì lại chép chăm nhất, trời ơi ta phải sống sao đây…】

Diệp phu nhân cười thỏa thuê, rồi nói:

“Ta chẳng có mấy linh cảm, thấy chư vị tỷ muội đều viết hay, mà ta khéo tay chép sạch. Chứ ai đâu như ta lại ngồi kêu vần thơ, tốt hơn là chép cho mọi người đỡ tốn sức, xem như hai bên cùng lợi.”

Nói rồi, bà đặt bút xuống, xoa xoa cổ tay.

Ta mỉm cười nói:
“Chữ của ta cũng không tệ, hay để ta chép giúp phu nhân một lúc.”

Ta cầm bút chép cho nàng, còn nàng thì chống cằm ngắm ta.

“Con vẫn chưa hôn ước hay thành thân, có muốn ta để mắt giùm chăng?”

Diệp phu nhân xuất thân danh môn, vai vế cao hơn ta, ta biết nàng có hảo ý, bèn đáp:
“Tạ phu nhân quan tâm, chỉ sợ duyên phận mà ta trông đợi, phu nhân e rằng khó lòng gả ta đi được.”

“Trong tộc ta, nhiều cặp phu thê ân ái cũng nhờ một tay ta tác thành. Con đòi hỏi bao nhiêu ta cũng ráng thử. Con nói nghe coi.”

Quả đúng là nữ tử phi phàm.

Ta cười:
“Nhiều thì cũng chẳng nhiều, chỉ vỏn vẹn hai điều. Thứ nhất, ta phải vừa mắt chàng. Thứ hai, chàng phải yêu ta.”

“Một nam tử môn đăng hộ đối, lại ngưỡng mộ con, e rằng xếp từ chốn Giang Nam nhà ngoại con ra đến kinh thành nhà phụ mẫu. Chắc hẳn đòi hỏi của con không chỉ hai điều ấy.”

Ta ngẫm nghĩ, rồi cất lời:
“Chàng mến ta, không chỉ vì xuất thân dòng dõi trâm anh, vì danh tiếng thơ phú được người đời tán tụng, hay nhan sắc hồng nhan.

“Ta muốn chàng yêu ta: yêu từng bài thơ nhỏ nhặt, vô danh nhưng hao tốn tâm huyết của ta; yêu cả dáng vẻ giản dị mỗi sớm mai khi ta giúp chàng chỉnh lại vạt áo, mặt mộc chẳng phấn son.”

Diệp phu nhân trầm ngâm chốc lát, bỗng nói:
“Ta với phu quân nương tựa lẫn nhau hai mươi năm, cũng được coi là vợ chồng đằm thắm. Nhưng nghe con nói thế, ta lại cảm thấy chồng ta chết quách đi có khi còn đỡ phiền.”

Mọi người trong đình cùng phá lên cười.

Diệp phu nhân thu xếp xấp bản thảo, đóng một con dấu lên giấy:
“Thay các tỷ muội chép thơ, ta cũng muốn để lại một dấu ấn ‘biên tập’ lưu danh.”

Ấn này mới khắc, ta chưa từng thấy nàng dùng qua.

Thấy chúng ta hiếu kỳ, Diệp phu nhân cười:
“Phu quân quá cố của ta mất đã mười năm rồi, con dâu lớn cũng đủ sức gánh vác việc trong nhà. Giờ rốt cuộc ta được tự xây một ngôi nhà nhỏ trên núi, thong dong tu Phật, đọc sách, còn khắc một chiếc ấn mới.”

Đường tỷ xem qua, tấm tắc khen:
“Tên hiệu hay quá.”

Rồi quay sang trêu Thư Linh:
“Muội có nhận ra mấy chữ này không? Không biết thì để Đình Trúc đọc cho.”

Thư Linh lộ vẻ chán nản.

Ta cười nhìn qua, thoắt sững người.

Thư Linh cười ha hả:
“Sao thế? Ngay cả tiểu thư cũng không nhận ra ư?”

Đường tỷ bảo:
“Bốn chữ đơn giản, ngoài muội còn ai không biết.”

“Bốn chữ gì?”

“Thuần An cư sĩ.”

Cả Thư Linh cũng đờ người.

【Đây mới là nhân vật nặng ký. Trời ơi, đâu phải không nổi danh, mà là chưa kịp đổi danh thôi. Xem ra ở đây chỉ có ta là mù chữ…】

Ta mỉm cười nói:
“Tên hay thật.”

Ta ngồi bên cạnh Thuần An cư sĩ, nhìn vào những trang thơ bà vừa chép.

Lật tiếp về trước, rất nhiều bài không phải của các tỷ muội trong thi hội, mà là những tác phẩm bà đi khắp ngõ ngách sưu tầm được, thậm chí có bài bà giả nam nhân vào thanh lâu góp nhặt thơ của các nữ tử chốn lầu hồng.

Ta tán thưởng:
“Đủ thấy tâm huyết, thực đáng quý.”

Thuần An cư sĩ cười:
“Chỉ mong con chớ chê thô kệch.”

Bà lật đến trang đầu:
“Bài thơ con làm năm tám tuổi cũng ở đây. Khi ấy ta đâu ngờ một ngày kia, ta lại gặp được con.”

Trong lòng ta thầm nhủ: Thuần An cư sĩ, ta cũng chẳng ngờ có ngày được gặp người.

Được gặp người, thật là may mắn vô song.

Trong nét bút đậm đà này, cũng có dấu ấn của ta.